Bài thơ: Có còn lối về?

CÓ CÒN LỐI VỀ?

Mẹ đi, lối cũ hoang mờ
Ngõ xưa rêu phủ, bàn thờ nguôi hương.
Con về… bóng Mẹ mờ sương,
Gọi trong gió lạnh, vấn vương giữa trời.

Giếng làng còn nước trong khơi
Mà sao Mẹ đã xa rời thế gian…
Nắm tay lần cuối tro tàn,
Trái tim con khuyết, ngập tràn lệ rơi…

Từ nay nhà cũ đơn côi,
Lối quê hun hút, đất trời lạnh tanh.
Ai cho – Mẹ vẫn để dành
Đồng xanh, đồng đỏ – mà đành tan xa!

Chiều rơi, khói bếp phôi pha,
Con nghe tiếng Mẹ qua tà áo xưa.
Một đời tần tảo sớm trưa,
Mẹ ơi – có thấu con giờ mồ côi…

Không còn Mẹ – có còn tôi?
Lối quê nay hóa lẻ loi bội phần.
Vầng trăng thôi chẳng còn tròn,
Mẹ tuy khuất bóng, vẫn còn trong tim…

Nguyễn Văn Đảm

(Kính tiễn Mẹ về cõi Vĩnh hằng)

Bài thơ “CÓ CÒN LỐI VỀ?” của Nguyễn Văn Đảm là một bài thơ tưởng niệm sâu sắc, xúc động, thể hiện nỗi đau mất mẹ, nỗi trống trải sau khi người thân yêu nhất lìa xa cõi đời. Dưới đây là phần bình bài thơ theo các phương diện nội dung, nghệ thuật và cảm xúc:

  1. Về nội dung:

Bài thơ là một khúc tưởng niệm tiễn biệt mẹ, nhưng đồng thời cũng là hành trình nội tâm đầy day dứt và đau đớn của người con còn lại nơi trần thế:

  • Nỗi trống vắng mất mẹ: Từ câu mở đầu “Mẹ đi, lối cũ hoang mờ” đã cho thấy cái mất không chỉ là người mẹ thân yêu, mà còn là mất mát cả một thế giới gắn bó, thân quen – nơi từng có bàn thờ, ngõ xưa, bóng dáng, tiếng nói của mẹ.
  • Nỗi tiếc nuối và day dứt: Câu “Nắm tay lần cuối tro tàn” là hình ảnh rất mạnh, gợi ra cái khoảnh khắc vô phương cứu vãn, khi sinh ly đã hóa tử biệt. “Trái tim con khuyết, ngập tràn lệ rơi” là tiếng khóc nén chặt, sâu thẳm, khắc vào tim.
  • Hồi tưởng và tri ân: Người con nhớ đến từng hình ảnh nhỏ của mẹ – tiếng gọi, khói bếp, tà áo, đồng ruộng – và cả những thứ mẹ từng “để dành” cho con. Điều này cho thấy một lòng tri ân vô bờ trước sự hy sinh âm thầm của mẹ suốt một đời lam lũ.
  • Triết lý nhân sinh nhẹ nhàng: Bài thơ không bi lụy, mà khơi dậy suy tưởng về kiếp người. Dù “không còn Mẹ – có còn tôi?”, nhưng người mẹ ấy vẫn “trong tim” người con. Mất mẹ là mất cả quê hương, nhưng cũng là lúc con người ta nhận ra gốc rễ, cội nguồn trong tim mình.
  1. Về nghệ thuật:
  • Thể thơ lục bát được sử dụng thuần thục, truyền cảm. Cách ngắt nhịp linh hoạt giúp nhấn mạnh cảm xúc từng câu.
  • Ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu nhưng chứa đựng chiều sâu cảm xúc. Những từ ngữ như: “rêu phủ”, “nguôi hương”, “tro tàn”, “đơn côi”, “lẻ loi”… được chọn lọc khéo léo để tạo không khí thê lương, tiếc nuối.
  • Hình ảnh thơ gần gũi và biểu cảm cao: “Giếng làng còn nước trong khơi”, “khói bếp phôi pha”, “tà áo xưa”, “đồng xanh, đồng đỏ”… là những hình ảnh dân dã, quen thuộc trong tâm thức người Việt, giúp người đọc dễ đồng cảm.
  • Âm hưởng trầm lắng, giàu nhạc tính. Có sự nhấn mạnh của các cặp từ đối lập như “trăng thôi chẳng còn tròn – mẹ tuy khuất bóng vẫn còn trong tim”, khiến bài thơ không rơi vào bi thương cực độ mà chuyển hóa thành tình yêu và ký ức thiêng liêng.
  1. Về cảm xúc:

Đây là bài thơ rất giàu cảm xúc. Cảm xúc được kiểm soát vừa phải – không gào khóc, mà là nỗi buồn thấm sâu, lặng lẽ, chân thành. Đặc biệt, không chỉ có tình riêng, mà còn gợi chung nỗi niềm của bao người con khi mất mẹ – nên dễ lan tỏa, cộng hưởng trong lòng người đọc.

Tổng kết:

“Có còn lối về?” là một bài thơ tưởng niệm thành công, hàm chứa nỗi đau mất mát, nỗi nhớ và tình thương không nguôi dành cho mẹ. Với hình ảnh gần gũi, câu từ giản dị, cảm xúc chân thành, bài thơ không chỉ là tiếng lòng của riêng tác giả mà còn là lời tiễn biệt thay cho bao người con mất mẹ. Đây là một bài thơ giàu giá trị nhân văn, rất cảm động.

Ảnh: Ông Phạm Đình Vương – Giám đốc Trung Tâm UNESCO Văn Hoá Thông Tin Truyền Thông kiêm Trưởng Văn Phòng đại diện Trung ương Hội Giáo dục Chăm sóc sức khoẻ cộng đồng Việt Nam cùng đại diện cơ quan viếng Cụ bà Nguyễn Thị Ninh, thân mẫu ông Nguyễn Văn Đảm – Phó Vụ trưởng Vụ 10 Viện KSND Tối Cao, Thành viên Hội đồng tư vấn cơ quan

Ảnh: Ông Phạm Đình Vương – Giám đốc Trung Tâm UNESCO Văn Hoá Thông Tin Truyền Thông kiêm Trưởng Văn Phòng đại diện Trung ương Hội Giáo dục Chăm sóc sức khoẻ cộng đồng Việt Nam trong một lần thăm chúc sức khoẻ  cụ bà Nguyễn Thị Ninh, thân mẫu ông Nguyễn Văn Đảm – Phó Vụ trưởng Vụ 10 Viện KSND Tối Cao, Thành viên Hội đồng tư vấn cơ quan

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *